Thu Dau Mot University Journal of Science


Search Papers

Choose the options

Select form Topic

AND

Select Year

And type your research interest


286 papers


Dạy và học các môn lý luận chính trị vừa đáp ứng chuẩn đầu ra vừa đáp ứng chuẩn CDIO và đòi hỏi ngày càng cao của xã hội đối với người lao động là một trong những thách thức không nhỏ đối với các trường Cao đẳng và Đại học. Mục tiêu của môn học, từng bước xác lập được thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận chung nhất để tiếp cận các khoa học chuyên ngành, tự giải quyết các tình huống trong thực tiễn trên cơ cở lý luận khoa học đã được trang bị người học có kỹ năng giải quyết vấn đề một cách tốt nhất theo chuẩn CDIO nhằm đem lại hiệu quả cao góp phần giáo dục và rèn luyện đội ngũ những người lao động mới ngày càng đáp ứng nhu cầu của thời đại. Từ yêu cầu về mục tiêu và phương pháp tiếp cận như trên, tôi xin chia sẻ những kinh nghiệm dạy và học các môn lý luận chính trị ở trường cao đẳng và đại học đáp ứng chuẩn đầu ra CDIO – những vấn đề thực tiễn làm chủ đề cho bài viết của mình.
Đối với các tân sinh viên (SV), việc chuyển từ môi trường phổ thông sang môi trường đại học làm cho SV bỡ ngỡ, gặp nhiều khó khăn trong định hình nội dung chương trình đào tạo, phương pháp học tập, động lực học tập và định hướng nghề nghiệp tương lai. Nhập môn ngành là môn học nhằm đáp ứng Tiêu chuẩn 4 của CDIO về tạo cảm hứng, niềm say mê, động lực học tập, khả năng sáng tạo và định hướng nghề nghiệp trong tương lai của một kỹ sư kỹ thuật [1]. Mặt khác, môn học bước đầu rèn luyện cho SV tư duy thực hành kỹ thuật qua việc kiến tạo sản phẩm, quy trình, và hệ thống. Bài viết này, chia sẻ những kết quả đạt được qua quá trình triển khai giảng dạy Nhập môn ngành Công nghệ thông tin (CNTT) tại trường Viện Kỹ thuật Công nghệ, đồng thời nêu ra một số thách thức trong quá trình triển khai.
Nghiên cứu việc sử dụng các phương pháp học tập với sự hỗ trợ của máy tính để tăng cường tính tích cực học tập và tạo hứng thú để sinh viên ngành Điện tử học tập tốt hơn các môn điện tử tương tự và kỹ thuật số. Khi các môn Điện tử tương tự và Kỹ thuật số được thiết kế lại trong từng khóa học, sinh viên sẽ có hứng thú hơn trong việc học tập. Ngoài ra sinh viên còn có thêm động lực thực hiện các bài tập và chuẩn bị cho các bài học mới được dựa trên phương pháp mà Giảng viên cung cấp như các công cụ phần mềm mô phỏng (1) nhằm tăng tính tương tác. Tốt hơn nữa, một số bài tập về mạch điện – điện tử sẽ được giao cho sinh viên thực hiện dưới dạng mô phỏng trước và sau đó mới thực hiện trên các linh kiện thực tế. Hay nói cụ thể hơn là bài tập được thiết kế -xây dựng từ lý thuyết trên bài giảng, tiếp đến là mô phỏng trên máy tính và cuối cùng sẽ thực hiện mạch trên mô hình thực tế. Trên đây là phương pháp giảng dạy được nghiên cứu để ứng dụng CDIO vào học tập cho sinh viên ngành Điện tử tại trường Đại học Công Nghệ Đồng Nai. Trong quá trình học tập, sinh viên có thể tự do sáng tạo, làm ra được những sản phẩm học tập của riêng mình và tự đánh giá được quá trình học tập và tiếp thu của bản thân.
Bài viết này trình bày về cộng đồng giảng dạy học tập tích cực được tạo ra để hỗ trợ việc thực hiện giai đoạn cải cách chương trình giảng dạy theo mô hình CDIO. Cộng đồng mở cửa cho tất cả các giảng viên kỹ thuật. Cộng đồng giảng dạy này khuyến khích việc sử dụng học tập tích cực và công nghệ thông tin trong lớp học và cung cấp cho người hướng dẫn một khuôn khổ ngang hàng để hỗ trợ họ trong khi hình thành, thiết kế, thực hiện và đánh giá những đổi mới trong dạy học. Nó tuân theo một mô hình hỗ trợ việc chuyển giao các kinh nghiệm thành công qua các khóa học trong một chương trình và cả các chương trình kỹ thuật. Một trong những thành tựu chính là giúp cải thiện giao tiếp và tăng cường hợp tác giữa các giảng viên, được hỗ trợ trong việc giám sát và đánh giá việc thực hiện cải cách chương trình giảng dạy, được truyền cảm hứng nghiên cứu về giáo dục kỹ thuật giữa các thành viên và đóng góp cho khoa kế hoạch phát triển mà họ đang được thực hiện.
CDIO là một giải pháp phát triển giáo dục toàn vẹn trong thời đại ngày nay. Có nhiều phương pháp dạy học tích cực được đề ra, trong đó dạy học trải nghiệm là một phương pháp gắn kết người học với thực tiễn một cách sâu sắc nhất, giúp cho người học cơ hội phát triển toàn diện các kĩ năng. Tiếng Anh là môn học cần được trải nghiệm để giao tiếp thường xuyên và chủ động. Bài viết này tác giả muốn nêu lên cách thức thực hiện tổ chức dạy học trải nghiệm ngay trong các tiết học tiếng Anh trên lớp theo hướng tiếp cận CDIO mà tác giả đã thực hiện tại Trung tâm Ngoại ngữ Trường Đại học Thủ Dầu Một.
Đảm bảo chất lượng là sự cải tiến liên tục, có hệ thống, có cấu trúc đến chất lượng trong việc duy trì và nâng cao chất lượng. Hệ thống đảm bảo chất lượng bao gồm 02 yếu tố: Đảm bảo chất lượng bên ngoài là đề cập đến hệ thống đảm bảo chất lượng được vận hành bởi các tổ chức ở bên ngoài các cơ sở giáo dục; Đảm bảo chất lượng bên trong đề cập đến hệ thống đảm bảo chất lượng được thiết lập và vận hành bởi chính các cơ sở giáo dục đại học. Nói cách khác, cơ sở giáo dục đại học đóng vai trò chính trong hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong. Nhưng để đảm bảo chất lượng, một trong những đòi hỏi quan trọng là trường đại học phải xây dựng và phát triển một hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong (Internal Quality Assurance: IQA). Chính vì vậy, bài viết này nhằm mục đích thảo luận những vấn đề cơ bản về IQA trong giáo dục đại học; những vấn đề từ thực tiễn triển khai IQA tại Trường Đại học Thủ Dầu Một sau hơn 10 năm xây dựng và phát triển, xác định những định hướng trong công tác Đảm bảo chất lượng của nhà Trường giai đoạn 2020-2025 và tầm nhìn đến 2030.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, hơn bao giờ hết ngành giáo dục đứng trước những thuận lợi và thách thức vô cùng to lớn. Thuận lợi đó chính là sự hỗ trợ từ công nghệ, nguồn học liệu đa dạng. Tuy nhiên khó khăn là ngành giáo dục phải làm sao để tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Được thành lập từ năm 2009 đến nay Trường Đại học Thủ Dầu Một cũng không tránh được những khó khăn chung đó và nhà trường đã có những thay đổi không ngừng để bắt kịp tình hình mới. Trong bối cảnh đó bài viết phân tích những thuận lợi và khó khăn của giảng viên đại học Thủ Dầu Một trong việc tích hợp đề cương theo hướng CDIO và AUN như là một trong những giải phải pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy của Trường Đại học Thủ Dầu Một.
Kỹ thuật dạy – học KWLH là tên được viết tắt các từ tiếng Anh: Know, Want to Know, Learned và How to learn more. Kỹ thuật này được đề xuất bởi Donna Ogle vào năm 1986, nhằm cải thiện quá trình dạy - học, đặc biệt là việc hướng dẫn sinh viên học tập chủ động, tự nghiên cứu tài liệu. Dựa trên trải nghiệm kỹ thuật này trong giảng dạy các học phần, bài viết này chúng tôi phân tích các bước thực hiện kỹ thuật KWLH trong quá trình dạy - học trên lớp cũng như hướng dẫn sinh viên tự học nhằm giúp sinh viên tăng cường tính chủ động, tích cực trong việc học và đạt được chuẩn đầu ra theo Tiêu chuẩn 8 - Học tập chủ động của đề xướng CDIO.
ABET là Hội đồng Kiểm định Kỹ thuật và Công nghệ kiểm định chất lượng đào tạo của các chuơng trình lấy sinh viên làm trung tâm. Các chương trình đào tạo theo chuẩn ABET phải đảm bảo tại thời điểm tốt nghiệp sinh viên đạt 7 chuẩn đầu ra. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả chỉ ra hiệu quả của việc dùng phương pháp đánh giá định lượng chuẩn đầu ra theo ABET, đảm bảo 70% sinh viên tốt nghiệp đạt chuẩn. Đồng thời, kết quả phân tích cho thấy tính cải tiến về kết quả đạt được so với năm học trước đó đối với sinh viên theo học chương trình kỹ thuật dầu khí.

NGHIÊN CỨU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SINH VIÊN BẰNG PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP THEO DỰ ÁN KẾT HỢP LÀM VIỆC NHÓM

Thái Hùng Cường, Võ Thanh Tùng, Võ Hồng Ngân, Nguyễn Xuân Toại, Nguyễn Thị Hiền, Lê Xuân Vịnh
Mục đích của nghiên cứu này là khám phá xem liệu các kỹ năng cần thiết mà chúng tôi cố gắng phát triển thông qua các dự án CDIO có thể đủ được sinh viên công nhận và liệu mức độ tin cậy của sinh viên có phù hợp với nhận thức của giảng viên về những kỹ năng đó. Trong hơn hai năm học thiên về kiến thức đại cương và lý thuyết chuyên ngành, sinh viên sẽ trải qua trong năm học cuối cùng của mình để hoàn thành tấm bằng. Các chương trình kiểm tra này nhằm mục đích để đạt được mức độ tự tin về các kỹ năng liên quan đến các tiêu chuẩn CDIO. Sinh viên cũng được đánh giá về các kỹ năng bằng dự án học tập của họ ở bài kiểm tra. Kết quả cho thấy trong hầu hết các trường hợp, học sinh tự tin vào khả năng của chính họ hơn là giảng viên nhận thấy khả năng của họ. Chúng tôi cũng đã khám phá những yếu tố khác ảnh hưởng đến sự tự tin và khả năng của sinh viên. Các yếu tố bao gồm cả việc họ tích cực sử dụng theo quy trình CDIO. Chúng tôi kết luận rằng sinh viên gặp khó khăn trong việc chuyển giao giữa kỹ năng làm việc nhóm sang làm việc cá nhân trong việc thực hiện khóa luận tốt nghiệp cá nhân và sự can thiệp của giảng viên có thể đưa kỳ vọng và sự tự tin của họ lên mức thực tế hơn, đồng thời hỗ trợ sự chuyển đổi giữa các kỹ năng làm việc của sinh viên.
Một chương trình đào tạo được thiết kế có các khóa học kiến thức chuyên ngành hỗ trợ lẫn nhau, có một kế hoạch rõ ràng trong việc tích hợp các kỹ năng cá nhân và giao tiếp, và kỹ năng kiến tạo sản phẩm, quy trình và hệ thống là vấn đề cốt lõi của tiêu chuẩn 3 CDIO – Chương trình đào tạo tích hợp. Sự cần thiết phải phân tích chương trình học được thừa nhận và gán ban đầu các kiến thức, kỹ năng và thái độ vào chuẩn đầu ra môn học. Do đó, bài viết này các tác giả sử dụng chương trình đào tạo khóa 2018-2021 của chương trình Quản lý tài nguyên và Môi trường làm ví dụ cụ thể về việc đánh giá tổ hợp giữa phương pháp giảng dạy và phương pháp kiểm tra đánh giá. Việc đánh giá tổ hợp này được duy trì mỗi hai năm để từ đó có sự điều chỉnh cần thiết cho các chương trình đào tạo trong tương lai.
Đề xướng CDIO: C (Conceive): Hình thành ý tưởng, D (Design): Thiết kế, I (Implement): triển khai, O (Operate): vận hành. Ở tiêu chuẩn 8 - Học tập chủ động và trải nghiệm, với tinh thần của tiêu chuẩn này, nhóm tác giả thực hiện bài viết ứng dụng tiêu chuẩn 8 vào học phần xây dựng hệ thống quản lý môi trường – ISO 14001có tính chất thực hành nhằm phân tích cách thức thực hiện tiêu chuẩn theo tinh thần của đề xướng. Trong học phần thực hành, Giảng viên hướng dẫn sinh viên học tập chủ động bằng cách giao cho sinh viên chọn lựa một địa điểm mà sinh viên dễ dàng tiếp cận thực hiện phân tích các điều khoản và xây dựng hệ thống. Đối với tiêu chuẩn quốc tế ISO 14001 thì việc hiểu tiêu chuẩn đã khó, tiếp cận một đơn vị để ứng dụng việc hiểu của mình còn khó hơn. Với việc xây dựng được hệ thống quản lý môi trường, buộc sinh viên phải được tiếp cận gần nhất với đơn vị, được đơn vị tiếp nhận và tạo điều kiện quan sát làm bài. Việc giảng viên cho sinh viên lựa chọn bất kỳ đơn vị nào, và khuyến khích sinh viên chọn các đơn vị là những nơi sinh viên đang làm thêm, nơi quen biết để sinh viên có nhiều điều kiện để quan sát và thực hành.
Theo những tiêu chuẩn về chương trình CDIO (tiêu chuẩn 3:1 và 3:2) quy định sự cần thiết để tập trung vào xây dựng đội ngũ nhóm và kỹ năng giao tiếp cho người học. Trong đó việc chuẩn hóa giáo dục trong kỹ thuật sẽ bổ sung thêm những kỹ năng cần thiết trong giao tiếp. Dựa vào những khía cạnh hiệu quả mang lại từ chương trình, trường Đại học Công nghệ Đồng Nai (DNTU) đang nghiên cứu để áp dụng tiêu chuẩn CDIO mới để quốc tế hóa môi trường giáo dục tại DNTU. Các công ty hợp tác với DNTU cũng đề xuất sinh viên tốt nghiệp phải có kỹ năng giao tiếp với người nước ngoài để có nhiều cơ hội việc làm cho các công ty nước ngoài. Mục đích của nghiên cứu này là để phân biệt các yếu tố văn hóa từ các đất nước, vùng miền khác nhau ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc nhóm của sinh viên để từ đó nhận ra các vấn đề và các yếu tố ảnh hưởng đến giao tiếp đa văn hóa mà sinh viên gặp phải. Kết quả của nghiên cứu sẽ là tài liệu hữu ích cho việc áp dụng chương trình CDIO 3:1 và 3:2 tại DNTU.
Ngày nay, do những tiến bộ không ngừng về công nghệ, kinh tế và xã hội cũng như các yêu cầu ngày càng cao từ các doanh nghiệp đối với các sinh viên mới ra trường, các trường đại học đang đối mặt với những thách thức phải nâng cao chất lượng đào tạo. Với nguồn lực hạn chế, các trường đại học của Việt Nam cần chọn giải pháp phù hợp nhất là tái cấu trúc các chương trình đào tạo. Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong việc tái cấu trúc chương trình đào tạo hiện nay là chuyển chương trình đào tạo từ định hướng nội dung (Content Based) sang định hướng đầu ra (Outcomes Based). Bài báo này chia sẻ một số khía cạnh về việc áp dụng C-D-I-O như là bối cảnh, vận dụng CDIO và OBE như là triết lý và công cụ để triển khai, cũng như sử dụng định hướng kiểm định ABET và các kiểm định khác như là động lực nhằm cải tiến chương trình đào tạo đáp ứng các nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội.
Quá trình đổi mới toàn diện và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở Việt Nam được đánh giá là một xu thế tất yếu, mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức cho các ngành kinh tế, các doanh nghiệp và người lao động. Nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thích ứng và đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và người sử dụng lao động, đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải không ngừng đổi mới, cải tiến chương trình đào tạo, phương pháp tiếp cận và giảng dạy. Qua đó thu hẹp khoảng cách giữa chất lượng đào tạo và nhu cầu của các doanh nghiệp. Song song với đó, về phía người học cần nhận thức được tầm quan trọng của việc chủ động lĩnh hội tri thức, bổ sung và rèn luyện kỹ năng, để sau quá trình đào tạo sẵn sàng và đáp ứng được các tiêu chuẩn về năng lực làm việc của doanh nghiệp. Bài viết tập trung vào thực trạng kỹ năng mềm của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một và đề xuất một số biện pháp phát triển kỹ năng mềm đạt chuẩn đầu ra theo CDIO.
Bài báo này mục đích giới thiệu các thông tin chung về bộ tiêu chuẩn ABET và đặc biệt tập trung vào đánh giá chuẩn đầu ra. Trên cơ sở phân tích các chương trình kỹ thuật trên thế giới và Việt Nam, nhóm tác giả thực hiện lựa chọn quy trình phù hợp để áp dụng cho chương trình kỹ thuật dầu khí của Trường Đại học Dầu khí Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu cho thấy, quy trình đánh giá ABET giúp tạo ra một chu trình cải tiến hoàn chỉnh và người học có thể được đón nhận một sản phẩm tốt, chuẩn bị chu đáo khi bước vào thị trường lao động tại Việt Nam và trên thế giới. Phương pháp đánh giá trực tiếp và gián tiếp trong 1 năm cho kết quả khá tương đồng và đạt kì vọng đặt ra. Bên cạnh đó, quá trình đánh giá cũng đưa ra một số giải pháp cải tiến cho một số học phần chưa đạt chuẩn đầu ra của học phần cho giai đoạn tiếp theo.
Xu hướng giáo dục thế giới hiện nay là gắn liền đào tạo với nghiên cứu khoa học và học để trải nghiệm. Trên tinh thần đó, Đại học Duy Tân (DTU) luôn hướng tới triển khai mô hình đào tạo giáo dục hiện đại, khoa học, sáng tạo, phục vụ mục tiêu đào tạo ra những sinh viên được trang bị đầy đủ tri thức. “Giáo dục 4.0” được coi là mô hình mà DTU đang hướng tới, đó là tương lai của giáo dục, học tập chủ động, lấy học sinh làm trung tâm, linh hoạt cả về thời gian và địa điểm, học tập dựa trên dự án và trải nghiệm, đáp ứng nhu cầu của Công nghiệp 4.0. Cuối cùng, chúng tôi sử dụng các thông số định lượng để đánh giá hiệu quả của các phương pháp đề xuất: tỷ lệ phần trăm học sinh đạt kết quả thành thạo trở lên trong các tiêu chuẩn ABET 1, 3, 5, 7; tổng thời gian nghiên cứu và mức độ hài lòng của sinh viên.
Bài viết này đề cấp đến cách thực hiện để nâng cao năng lực về kỹ năng, giảng dạy cho giảng viên tại trường Đại học Công nghệ Đồng Nai nhằm mục đích thực hiện tốt việc đào tạo theo định hướng CDIO.Trường đại học có các ngành khối kỹ thuật chiếm trên 50% tổng số các ngành đào tạo nên việc triển khai công tác đào tạo theo hướng tiếp cận CDIO đã được nhà trường chú trọng phát triển trong nhiều năm gần đây. Từ việc mời chuyên gia nước ngoài có nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy theo phương pháp CDIO về tập huấn cho đội ngũ giảng viên cách cập nhật chương trình đào tạo theo phương pháp CDIO, cách triển khai một học phần theo phương pháp CDIO đến việc mời chuyên gia trong nước đến tập huấn mô hình giảng dạy CDIO, tập huấn xây dựng chuẩn đầu ra chương trình đào tạo theo mô hình CDIO… Tất cả đã thu được các kết quả đáng mong đợi. Từ kết quả này, chúng tôi muốn chia sẻ cách làm của Trường để góp phần nâng cao hơn nữa tinh thần đoàn kết và sự hợp tác trên mọi phương diện.
The Southeast plays a very important role in Vietnam’s economic development. Despite a high concentration of social scientists in the Southeast region, there remains a paradox that the Southeast culture has not been sufficiently researched into. Applying the method of cultural zoning based on the changes of the three dimensions Subject – Space - Time developed by the author, the article concludes that the Southeast is a separate cultural zone besides the Southwest and lists some typical characteristics of the Southeast in terms of cultural elements (focusing on the organizational culture) and the system of cultural personality characteristics of Vietnamese people in the Southeast. An analysis of the Human Development Index (HDI) of the Southeast shows that this development is unbalanced and unsustainable. To achieve balance and sustainability, more investment must be made on the culture and the people; community-village type behaviors should be replaced by community-society type behaviors; and the urban way of living, the urban culture and good urban citizen character should be promoed while limiting the rural/agricultural lifestyle and characteristics.
Binh Duong has rapidly transformed during the period 1999-2009, from a agricultural province to industrial one. The paper explores the shift of occupation-based social structure of Binh Duong during that period. Using the data sets of Census 1999 and 2009, the paper analyses the evolution of the occupational figure in Binh Duong by ten occupational categories and four occupational strata, and the differences in this figure by residence, gender, ethnic, and religious variables. Findings show that the occupational structure of Binh Duong is more developed than the one of the Southern Key Economic Zone. Its change in rural areas is more significant than in urban areas. There are not considerable differences by gender, ethnicity, and religiousness. The findings are suggestive for a further analysis using the data set of Census 2019 on the evolution of occupational figures in Binh Duong during the previous twenty years (1999-2019).
In 2014, Binh Duong has 2.885 the Khmer people, being the second largest ethnic minority compared to the Hoa people. They have contributed to the multi-ethnic culture of Binh Duong. Hundreds of works on the Khmer in the Mekong Delta considered their culture as a typical of Theravada Buddhist culture in Vietnam but this proposition is not suitable for the Khmer community in An Binh, Phu giao district who is this object of this study. By qualitative data sources from in-depth interviews, participant observations and approach to the historical particularism, this study documented the cultural characteristics of the Khmer in An Binh and analyzed the factors that make culture of the Khmer in An Binh different from the culture of the Khmer in the Mekong Delta. Natural conditions and socio-historical context make the cultural practices of the Khmer in An Binh more similar to the culture of the ethnic groups in the Central Highlands than the Khmer culture in the Mekong delta, especially, customs and folk beliefs.

Interpretations about Hoa Anh state

Nguyễn Văn Giác
DOI:
On the basis of coordinating the sources of history materials from Vietnam and China, together with the latest archaeological achievements of Ho citadel, the article has delineated territory, confirmed the chronology frame with the Kings of this kingdom in relation to post-Champa Empire. It is from the aftermath of Vijaya, the two parts of Aryaru (Phu Yen) and Kauthara (Khanh Hoa) belong to Hoa Anh Kingdom, in which, Le Thanh Tong is crowned as Ban La Tra Duyet; the rebellion of this King is the cause for the second conquest, formally taking Ling Chan/ Da Bia as the landmark; Trai A Ma Phat Am is designated as Hoa Anh’s King on the remaining land of Kauthara, but immediately incorporated into Panduranga, forming the state of post-Champa.

Publication Information

Publisher

Thu Dau Mot University, Viet Nam

Honorary Editor-in-Chief and Chairman of the Editorial Board

Assoc. Prof. Nguyen Van Hiep

Deputy Editor-in-Chief

PhD. Trần Hạnh Minh Phương
Thu Dau Mot University

Editorial Board

Prof. Tran Van Doan
Fujen University, Taiwan
Prof. Zafar Uddin Ahmed
Vietnam National University Ho Chi Minh City

Prof.Dr. Phillip G.Cerny
The University of Manchester, United Kingdom
Prof. Ngo Van Le
University of Social Sciences and Humanities (VNU-HCM)

Prof. Bui The Cuong
Southern Institute of Social Sciences​​​​​​​
Prof. Le Quang Tri
Can Tho University

Assoc. Prof. Nguyen Van Duc
Animal Husbandry Association of Vietnam
Assoc. Prof. Ted Yuchung Liu
National Pingtung University, Taiwan

PhD. Anita Doraisami
Economics Monash University, Australia
Prof. Dr. Andrew Seddon
Asia Pacific University of Technology & innovation (APU)

Assoc. Prof. Le Tuan Anh
Thu Dau Mot University
Prof. Abtar Darshan Singh
Asia Pacific University, Malaysia

Prof.Dr. Ron W.Edwards
The University of Melbourne, Australia
Assoc. Prof. Hoang Xuan Nien
Thu Dau Mot University

PhD. Nguyen Duc Nghia
Vietnam National University Ho Chi Minh City
PhD. Bao Dat
Monash University (Australia)

PhD. Raqib Chowdhury
Monash University (Australia)
PhD. Nguyen Hoang Tuan
Thu Dau Mot University

PhD. Nguyen Thi Lien Thuong
Thu Dau Mot University

Assistant

Nguyen Thi Man
Thu Dau Mot University